Văn phòng Diện Chẩn Sống Khỏe_ Khu nhà 102 Ngõ 95 Chùa Bộc-Đống Đa-Hà Nội _ ĐT : 0906143408

Hướng dẫn lý thuyết và thực hành cơ bản cho những quí vị thực sự yêu thích Diện Chẩn . Hãy gọi cho chúng tôi để biết lịch .

Tư vấn sức khỏe , chẩn bệnh đưa ra phác đồ miễn phí.

Chủ Nhật, 31 tháng 5, 2015

Cây chanh - Tốt từ ngọn đến rễ

Trong sách Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, giáo sư Đỗ Tất Lợi mô tả chanh là loại cây nhỏ nhắn hay có gai, gai dài 35 mm, búp non có màu đỏ. Lá hình trứng hay hình dài, dài 5,5 - 11 cm, rộng 3,5 - 6 cm, mép có răng cưa. 
Hoa trắng, nhuốm tím hạt hay đỏ tím, mọc đơn độc thành từng chùm 2 - 3 hoa. Lá có hình mũi mác, nhẵn hơi có lông. Quả nhỏ, vỏ mỏng nhẵn, chia thành 10 - 12 múi, mỗi múi chứa 2 - 3 hạt. Cơm quả rất chua.
Về phân bố, GS Đỗ Tất Lợi cho hay chanh được trồng khắp ở nước ta. Mùa hoa của cây vào tháng 3 - 5, mùa quả từ tháng 6 - 9. Ngoài ra, người dân còn trồng một vụ chanh chiêm vào tháng 1 - 2.
Người dân trồng loại cây này chủ yếu lấy quả để ăn, lá làm gia vị. Trong Đông y, chanh được tận dụng từ quả, lá, rễ để làm vị thuốc, được thu hái gần như quanh năm, dùng cả tươi và khô.
Lớp vỏ xanh của chanh chứa tinh dầu là một chất lỏng màu vàng nhạt, mùi thơm chanh, còn vỏ trắng chứa pectin.
GS Lợi cho biết rong dịch quả chanh có 80 - 82% nước, 5 - 7% axit xitric, 1 - 2% xitrat axit canxi, kali, xitrat ety và 0,4 - 0,5% axit malic. Ngoài ra còn 0,4 - 0,75% đường interverti, 0,5% sacaroza, 0,75 - 1% protit. Độ tro 0,5%, vitamin C 65 mg trong 100 g dịch tươi.
Lá chanh chứa tinh dầu mùi thơm dễ chịu. Hàm lượng tinh dầu trong lá thay đổi từ 0,33 - 0,5%. Ngoài ra,lá còn chất stachydrin, một dẫn xuất của prolin.
Chữa bệnh cùng chanh
Theo GS Đỗ Tất Lợi, các bộ phận của cây chanh đều có giá trị riêng. Cụ thể:
Dịch quả: Tính mát, thông tiểu tiện, có tác dụng chữa bệnh tê thấp, liều dùng 30 - 120 g/ngày, pha thành nước uống. Nó cũng có thể dùng chữa bệnh scorbut (bệnh do thiếu vitamin C) của trẻ sơ sinh, thậm chí cả người lớn. Ngoài ra, dịch quả chanh còn làm nguyên liệu chế axit xitric thiên nhiên.
Múi: Có thể phối hợp với muối ăn dùng ngậm chữa ho, viêm họng. Sau khi gội đầu, bạn có thể vắt một ít nước chanh quả lên có tác dụng làm trơn tóc.
Lá và ngọn: Lá thường dùng làm gia vị ăn với thịt gà, ốc, nấu nước để xông trị cảm cúm. Lá và búp non chanh giã nát đắp lên rốn trẻ em chữa bí đái, đầy chướng bụng.
Rễ: Dùng chữa ho dưới dạng thuốc sắc, dùng riêng hoặc phối hợp với rễ dâu tằm, ngày dùng 6 - 12 g.
Tinh dầu quả và lá: Pha nước gội đầu, làm thơm các thuốc phiến, thuộc bột hay thuốc ngậm.
Vỏ thân cây: Dùng là thuốc bổ đẵng giúp tiêu hóa, ngày uống 4-10 g dưới dạng thuốc sắc.
Hạt quả: Dùng làm thuốc tẩy giun.

Thuốc bôi ngoài da: Dùng sao cho đúng?

Các dược chất có trong thuốc bôi ngoài da có thể thấm vào máu và nếu thuốc có độc tính thì cơ thể sẽ bị nhiễm độc nếu bôi dài ngày.


Bôi ngoài, hại trong
Thuốc bôi ngoài da là một chế phẩm tiện lợi trong điều trị các bệnh tổn thương ngoài da. Hiện nay có nhiều dạng thuốc bôi trên thị trường như mỡ Benzosali, hồ nước, mỡ Acyclovir, kem kẽm oxit, dung dịch sát khuẩn, dung dịch xanh-methylen... Nhìn chung, thuốc bôi bao gồm một hoặc nhiều thành phần: chất béo, nước, bột và thuốc.
Có 5 loại thuốc bôi cơ bản đó là: dạng dung dịch, dạng bột, dạng hồ, dạng kem và dạng mỡ:
1. Dạng dung dịch: Đa phần là các thuốc sát trùng như: Xanh metylen, Acid boric, Tím gentian. Dạng dung dịch này chủ yếu được dùng cho vết thương, loét da, chảy nước.
2. Dạng bột: Thành phần dược liệu có trong thuốc bột thường là các kháng sinh như Clorocid. Thuốc bôi dạng này chủ yếu được dùng cho các vết thương nhiễm trùng chảy nước nhiều và liên tục.
3. Thuốc mỡ: là hỗn hợp gồm các chất diệt khuẩn như kháng sinh, các acid hữu cơ, các chất làm bong vảy da như acid salicylic, các kháng sinh chống nấm, corticoid, vitamin... Thuốc mỡ chỉ được dùng cho vết thương đã khô và đóng vảy.
4. Dạng hồ: là dạng thuốc bôi trong đó thành phần bao gồm chất béo, bột tạo hình và thuốc. Vì có nhiều bột hơn nên thuốc bôi ngoài da dạng hồ được sử dụng trong giai đoạn bán cấp, vết thương chuẩn bị se da.
5. Kem: là một dạng thuốc bôi mà thành phần của nó có đủ: mỡ, glycerin, nước và thuốc. Nó thường được dùng để chế tạo mỹ phẩm. Thuốc đôi khi cũng được bào chế dạng kem với chủ định là làm mát da.
Việc sử dụng thuốc dùng ngoài da cũng phức tạp và nhiều lúc đòi hỏi sự thận trọng không kém gì thuốc để uống. Các hoạt chất có trong thuốc bôi ngoài da có thể ngấm vào cơ thể gây tác động toàn thân.
Khi dùng thuốc bôi ngoài da cần biết cơ chế tác dụng của thuốc, phản ứng của cơ thể với thuốc ấy. Trên thực tế, rất nhiều trường hợp cả người lớn và trẻ nhỏ phải nhập viện do sử dụng thuốc bôi ngoài da không đúng cách.
Cách đây không lâu, BV Nhi Đồng 2, TPHCM đã tiếp nhận một trẻ hai tháng tuổi bị hoại tử đầu ngón tay phải cắt bỏ phần hư chỉ vì người thân mua kem chứa thuốc chống viêm glucocorticoid thoa mụn bóng nước trên da của trẻ.
Một trường hợp bị phản ứng phụ từ thuốc bôi ngoài da khác là ông Đ., ở Quảng Xương, Thanh Hóa.Ông Đ. bị bệnh vẩy nến, khi mới mắc có đi khám ở bệnh viện tỉnh, bác sĩ kê loại thuốc mỡ Daivonex. Bôi thời gian đầu thấy đỡ nên những lần sau khi bệnh tái phát nặng hơn, ông Đ. vẫn tự mua loại thuốc này để bôi. Sau hơn 7 tháng, ông thấy người mệt mỏi, chán ăn, huyết áp cao nên phải nhập viện. Bác sĩ kết luận ông bị viêm cầu thận vì dùng thuốc bôi da quá lâu, gây tác dụng phụ.
Điển hình của loại thuốc dùng ngoài da có thể gây tác dụng phụ và ảnh hưởng toàn thân nếu sử dụng bừa bãi là thuốc có chứa glcocorticoid (gọi tắt corticoid) hoặc chứa fluoro-corticoid là dược chất có tác dụng rất mạnh. Nếu bôi lâu ngày trên da sẽ làm teo da, rạn da, da dễ bị nhiễm trùng vì mất sự đề kháng, hoặc da mặt bị mụn trứng cá, phát mụn tấm khắp mặt...
Không những thế, nếu bôi lâu ngày, độc tính của thuốc có thể thấm qua da vào máu làm cho trẻ con chậm lớn hoặc các cô gái tiền dậy thì bị rối loạn sự phát triển hệ lông. 
Do có khả năng gây tai biến như thế nên mặc dù chỉ được dùng ngoài da, nhưng các loại thuốc bôi có chứa corticoid, fluorocorticoid vẫn bị quy vào thuốc độc dược bảng A, tức là thuốc phải được bán theo toa của bác sĩ, phải dùng đúng liều lượng và không dùng quá 7 ngày.
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
Thuốc bôi da cũng là thuốc
BS Bùi Cẩm Trúc, thành viên của Hiệp hội Thẩm mỹ Da Hoa Kỳ, bác sĩ điều trị tại Phòng khám BS Trúc khuyến cáo, bất cứ loại thuốc nào cũng đều có tác dụng phụ. Sử dụng thuốc bôi ngoài da phải phù hợp với tính chất bệnh lý, giai đoạn bệnh, mức độ bệnh, vùng da, có khi cả tuổi, giới, thời tiết, nghề nghiệp… thì mới có hiệu quả cao.
Theo nguyên tắc, mỗi loại kem bôi da không được sử dụng quá 15 ngày và những lần sau phải đổi sang thuốc mới để tránh nhờn thuốc. Cần bôi thử ở từng vùng nhỏ và theo dõi phản ứng, nếu không thấy có hiện tượng gì lạ xuất hiện như ngứa tăng lên, nổi mẩn... thì mới dùng thuốc bôi rộng toàn vùng tổn thương.
Một số thuốc bôi da nếu kết hợp với thuốc khác sẽ gây phản ứng. Một số bệnh khi dùng thuốc bôi cũng yêu cầu kiêng cữ và thay đổi cách ăn uống, sinh hoạt. 
Vì vậy, khi có biểu hiện bệnh, không nên tự ý mua thuốc chữa mà phải được bác sỹ kê đơn, hướng dẫn dùng thuốc, đặc biệt với phụ nữ đang mang thai vì có thể ảnh hưởng đến thai nhi. Khi bôi thuốc cần làm vệ sinh da, làm sạch tổn thương và vùng da xung quanh trước thì thuốc mới có hiệu quả.
Riêng đối với trẻ sơ sinh, phải tránh dùng các loại xà bông có chứa hexaclorophen (như Phisohex) vì có thể gây ngộ độc thần kinh. Hoặc không được dùng với dầu gió, dầu cù là có chứa bạc hà (menthol), long não (camphor) bôi lên mũi trẻ sơ sinh vì có thể gây kích ứng làm ngưng hô hấp .
Đối với các mỹ phẩm như: kem dưỡng da, kem trị mụn, kem trị tàn nhang cũng cần phải xem như dược phẩm và phải dùng với ý thức và thận trọng như dùng một loại thuốc dùng ngoài da. Thực tế, có nhiều loại kem như kem trộn dùng thời gian ngắn rất hiệu quả nhưng càng về sau gây teo da giãn mạch, dễ bị ngứa, khó dứt được thuốc bôi và để lại hậu quả lâu dài về mặt thẩm mỹ.
Tử vong vì thuốc bôi miệng ở trẻ mọc răng
Cơ quan Quản lý Thuốc và Thực phẩm Hoa Kỳ (FDA)đã phát hiện 22 trường hợp ở nước này bị tác dụng phụ nặng do lidocaine bôi miệng ở trẻ em trong năm 2014. Trong số này có 6 trường hợp tử vong, 3 trường hợp nguy kịch, 11 trường hợp phài nhập viện và 2 trẻ phải can thiệp y tế nhưng không vào viện.
Lidocaine là dạng thuốc bôi chưa được FDA phê chuẩn để điều trị đau miệng do mọc răng ở trẻ nhũ nhi và trẻ nhỏ, và tình cờ nuốt phải thuốc này có thể gây co giật, tổn thương não nặng và và bệnh tim ở trẻ em.
Theo Ngọc Ân - Sức khỏe gia đình

Tìm ra cách hồi phục trí nhớ cho người hay quên

Bằng cách dùng ánh sáng kích hoạt các tế bào não nhất định, các nhà khoa học cho biết họ có thể giúp những người mắc chứng hay quên nhớ lại phần ký ức đã bị mất.


Các nhà khoa học nói có thể hồi phục trí nhớ cho người mắc chứng hay quên - Ảnh: Press TV
Trong nghiên cứu công bố trên tạp chí Science ngày 29/5, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts (MIT, Mỹ) nói họ đã tiến hành nghiên cứu trên chuột thí nghiệm bị mắc chứng hay quên.
Họ nhận thấy phần trí nhớ đã mất của chúng không bị mất vĩnh viễn mà được lưu lại ở các tế bào não nhất định mà chúng không thể tìm lại được. Các nhà khoa học đã dùng ánh sáng để "nhắc" các tế bào não này hoạt động, nhờ đó chuột có thể nhớ lại phần ký ức đã quên.
Kết quả này trái ngược với giả thuyết lâu nay cho rằng mất trí nhớ ở chứng hay quên là do việc lưu trữ của bộ nhớ có vấn đề, chứ không phải vì não không có khả năng nhớ lại.
"Đa số nhà nghiên cứu ủng hộ lý thuyết lưu trữ, nhưng nghiên cứu này cho thấy lý thuyết trên có lẽ là sai" - Susumu Tonegawa, giáo sư tại khoa sinh học MIT từng đoạt giải Nobel và là trưởng nhóm nghiên cứu, nói.
"Kết quả nghiên cứu này có nghĩa là những ký ức trong quá khứ có thể không bị xóa đi mà chỉ đơn giản là bị "thất lạc" và não không thể tìm thấy để lấy lại", GS Tonegawa thêm.
Ông cũng hi vọng những phát hiện của cuộc nghiên cứu sẽ thúc đẩy các nghiên cứu trong tương lai về việc khôi phục trí nhớ cho người mắc chứng hay quên.
Theo T.Vy - Tuổi trẻ

Bệnh tim có di truyền?

Trên thế giới bệnh tim mạch hiện nay là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu của con người. Bệnh thường kết hợp với các bệnh khác của cơ thể.

Và ở những bệnh nhân có bệnh kết hợp này, tỉ lệ tử vong tăng lên từ 2 - 4 lần so với những người bị bệnh tim mạch đơn thuần
Lồng ngực khó chịu, đau thắt ngực khi hoạt động
Có rất nhiều triệu chứng mà trong thuật ngữ chuyên môn các thầy thuốc thường gọi là triệu chứng cơ năng, gợi ý cho người bệnh cảm thấy mình bị bệnh tim mạch và thấy cần phải đi khám bệnh ở bệnh viện hay phòng khám. 
Những triệu chứng này thường do tình trạng thiếu máu cục bộ của cơ tim, tình trạng rối loạn vận động cơ tim, giãn các buồng tim và tổn thương của hệ thống van trong buồng tim gây ra.
Biểu hiện hay gặp nhất của thiếu máu cơ tim cục bộ là khó chịu ở lồng ngực bên trái và nặng hơn là đau thắt ngực. Còn giảm khả năng làm việc của cơ tim sẽ dẫn đến cảm giác yếu, dễ mệt, nhất là khi hoạt động hoặc nặng hơn là xanh tím, tụt huyết áp, ngất và tăng áp lực động mạch phổi, suy tâm thất trái điều này đưa đến phù và khó thở.
Các triệu chứng cơ năng mà người bệnh gặp phải thường tăng lên khi hoạt động nhiều, gắng sức, trong trạng thái xúc động… 
Hiếm khi xuất hiện lúc nghỉ ngơi, nếu triệu chứng đau ngực, khó thở, hồi hộp….xuất hiện lúc nghỉ ngơi cần phải nghĩ đến những bệnh của hệ thống thần kinh thực vật hơn là các tổn thương thực thể của tim.
Những lầm lẫn thường gặp trong khi chẩn đoán bệnh tim
Vì bệnh tim mạch rất phổ biến trong mọi tầng lớp nhân dân và có rất nhiều người không phải là thầy thuốc cũng đã quen nghe đến các triệu chứng chủ yếu của loại bệnh này. Chính vì vậy, rất nhiều người và cả thầy thuốc cứ gán bừa những triệu chứng cơ năng không phải của bệnh tim coi như là bệnh sự.
Hơn nữa sự kết hợp giữa tư tưởng sợ bệnh tim phổ biến trong xã hội với sự liên tưởng sâu đậm giữa bệnh tim và các rối loạn cảm xúc làm cho những người không bị bệnh tim, nhưng luôn luôn tưởng tượng ra những triệu chứng giống bệnh tim. Bản thân họ không biết những chuyện như vậy chỉ làm khổ bản thân họ, gia đình và thậm chí cho cả thầy thuốc nữa.
Trong các triệu chứng hay gặp ở bệnh tim thì hiện tượng khó thở là triệu chứng gây khó khăn nhiều nhất cho công việc chẩn đoán vì không chỉ đặc trưng cho bệnh tim, mà còn là dấu hiệu của nhiều loại bệnh khác như các bệnh về phổi, những người béo phì và những người có tình trạng cảm xúc bị rối loạn. 
Tương tự, triệu chứng đau và nặng ngực cũng do nhiều bệnh khác như đau cơ thành ngực, viêm dạ dày thực quản… gây ra chứ không riêng gì bệnh thiếu máu cơ tim. Tuy nhiên, nếu tìm hiểu kỹ cách xuất hiện của cơn đau và các triệu chứng đi kèm, người thầy thuốc có thể chẩn đoán chính xác người bệnh có bị bệnh tim thật sự hay không?
Bệnh tim có di truyền hay không?
Khá nhiều bệnh tim có tính chất gia đình, nhất là những bệnh tim có kết hợp với các bệnh khác như tiểu đường, rối loạn chuyển hoá… Một số bệnh tim khác phải kể đến cũng có yếu tố gia đình như: hội chứng Marfan, bệnh cơ tim phì đại, đột tử trong hội chứng QT kéo dài…
Trong cao huyết áp không rõ nguyên nhân thì có yếu tố gia đình nhưng không rõ rệt lắm. Nhiều bệnh tim khác trong gia đình không những do di truyền mà còn do các thói quen về sinh hoạt và ăn uống của gia đình bệnh nhân như: ăn quá mặn, ăn nhiều mỡ và chất bột đường, hút thuốc lá, thuốc lào… 
Chính vì vậy, ở những gia đình có người bị bệnh tim, các thành viên khác trong gia đình cần phải chú ý khả năng mắc bệnh tim của mình. 
Việc phát hiện bệnh sớm là rất cần thiết cho điều trị, ở tuổi trên 40, những người có yếu tố nguy cơ cao trong gia đình có tiền sử bệnh tim mạch nên đi khám bệnh định kỳ mỗi sáu tháng để tầm soát sớm bệnh tim mạch.
Bạn có bị bệnh tim?
Sau khi khám bệnh tại một thầy thuốc chuyên khoa về tim mạch và được làm thêm một số xét nghiệm cơ bản để chẩn đoán xác định cũng như loại trừ bệnh như đo điện tim, siêu âm tim, chụp x quang tim phổi… người bệnh có thể ở vào một trong ba trường hợp sau đây:
- Bạn hoàn toàn không bị bệnh tim, khi đó chính bản thân người thầy thuốc phải cương quyết khẳng định với người bệnh như vậy và không nên hẹn họ quay lại kiểm tra tim mạch định kỳ vì nếu quá quan tâm đến người bệnh, họ sẽ bị ám ảnh bởi bệnh tim và luông nghĩ mình đẵ mắc bệnh.
- Nếu không thấy dầu hiệu của bệnh tim thật sự, nhưng có một hoặc nhiều yếu tố nguy cơ của bệnh thiếu máu cơ tim: béo phì, tiểu đường, cao huyết áp, tiền căn gia đình, hút thuốc lá, phụ nữ trên 40 tuổi… nên có kế hoạch điều trị để giảm các yếu tố nguy cơ đó và hẹn tái khám định kỳ nhằm tầm soát sớm bệnh tim mạch.
- Nếu thật sự mắc bệnh tim, cần phải điều trị ngay. Bệnh nhân cần phải yêu cầu thầy thuốc chuyên khoa tim mạch nói rõ hường điều trị cho mình: Điều trị nội khoa, can thiệp nội mạch hay phẫu thuật. Tuy nhiên chúng ta cũng lưu ý rằng: các điều trị cho bệnh tim mạch là rất tốn kém, là một gánh nặng về kinh tế cho xã hội, gia đình và bản thân người bệnh.
Theo PGS.TS Nguyễn Hoài Nam - Tuổi trẻ
Tổng thư ký Hội Phẫu thuật lồng ngực và tim mạch TPHCM

Tại sao bệnh nhân đã khỏi ung thư vẫn tái phát bệnh?

Điều mà mọi bệnh nhân ung thư đã được chữa trị khỏi đều lo sợ là căn bệnh quái ác này sẽ quay trở lại, tấn công cơ thể họ lần nữa.


tế bào, ung thư, ngủ đông, tái phát bệnh
Nghiên cứu mới phát hiện, các tế bào ung thư có thể ngủ đông suốt thời gian dài, đôi khi hàng chục năm, để tránh bị quá trình hóa trị tiêu diệt, rồi thức tỉnh và làm tái phát bệnh sau đó. Ảnh: Corbis
Trong các trường hợp hiếm gặp, ung thư đã "tái xuất" ngay cả khi bệnh nhân không còn dấu hiệu bệnh suốt một thời gian rất dài, đôi khi hàng chục năm, khiến các bác sĩ coi họ đã được chữa khỏi. Các nhà khoa học tin rằng, họ hiện đã lí giải được hiện tượng này.
Bằng chứng di truyền cho thấy, các tế bào ung thư có thể "ngủ đông", do đó tránh được các ảnh hưởng của quá trình chữa trị, và chỉ "tỉnh dậy" nhiều năm sau đó.
Các chuyên gia thuộc Viện nghiên cứu ung thư ở London, Anh tuyên bố, khám phá trên của họ có thể gợi mở những cách loại bỏ tận gốc các tế bào ung thư ngủ đông. Các phương pháp như vậy có thể diệt trừ nguy cơ nhỏ về việc căn bệnh sẽ tái phát sau khi dường như đã được chữa khỏi.
Nghiên cứu trên rất đáng chú ý, vì các nhà nghiên cứu đã thu thập được các mẫu máu và tủy xương từ một bệnh nhân mắc một dạng bạch cầu hiếm gặp, kéo dài tới 20 năm.
Nhóm nghiên cứu đã nhận diện được một đột biến ADN nhất định, trong đó 2 gen có tên gọi là BCR và ABL1 hòa nhập vào nhau, ở các tế bào ung trong cả 2 mẫu máu trích lấy cách nhau 22 năm. Điều này chứng tỏ một dòng giống chung giữa bệnh bạch cầu ban đầu và bệnh bạch cầu tái phát, ám chỉ rằng, các tế bào ung thư đã kháng cự được quá trình hóa trị bằng cách ngủ đông và tỉnh thức hàng thập niên sau đó.
Các nhà khoa học từ lâu đã nghi ngờ các tế bào ngủ đông từ căn bệnh ung thư ban đầu gây ra việc tái phát bệnh, nhưng không có bằng chứng chứng minh giả thuyết đó. Nghiên cứu mới đã giúp họ xác thực giả thuyết này.
GS Mel Greaves, người đứng đầu nghiên cứu, giải thích: "Công trình nghiên cứu của chúng tôi đã cung cấp bằng chứng ấn tượng về sự tiến hóa của ung thư trong hành động, với các tế bào ung thư có thể nằm ngủ đông để tránh quá trình điều trị và sau đó tích tụ các đột biến mới, có khả năng thúc đẩy bệnh tái phát.
Các tế bào máu gốc thường xuyên thay đổi bất thường giữa trạng nằm im lìm hay ngủ với trạng thái phân chia rất nhanh. Có vẻ như các tế bào ung thư đã vay mượn trò này để tránh bị quá trình hóa trị tiêu diệt".
GS Greaves nói thêm rằng, trong tương lai, nếu chúng ta tìm ra cách đẩy nhanh tốc độ phát triển của các tế bào ngủ đông báo trước bệnh ung thư này, chúng ta có thể dùng hóa trị liệu tấn công và tiêu diệt chúng, giả nguy cơ tái phát bệnh ung thư tốt hơn nữa.
Theo Tuấn Anh - 

Đi nắng về chớ rửa mặt, vì sao?

Thói quen rửa mặt ngay sau khi đi nắng về có thể là nguyên nhân khiến bạn đau đầu. Thoạt nghe có vẻ nghịch lý nhưng đây lại là lý do gây bệnh rất thường gặp

Việc hoạt động, thể thao, đi chơi... ngoài nắng làm cơ thể thoát ra nhiều mồ hôi. Nhiều người về đến nhà, khi thấy đầu, mặt nóng bừng bừng là muốn tắm, gội đầu, rửa mặt ngay cho mát mẻ.
Thế nhưng, họ đâu biết rằng cảm giác dễ chịu chỉ là ban đầu và không lâu sau, đầu, mặt sẽ nóng bừng trở lại cùng chứng đau đầu. Vài viên thuốc giảm đau có thể giúp xoa dịu cơn đau. Tuy nhiên những ngày sau đó, bệnh vẫn diễn biến tương tự, hậu quả dẫn đến là đau đầu mạn tính kèm theo rối loạn tiêu hóa, loét dạ dày, viêm gan… do việc dùng thuốc giảm đau quá nhiều và kéo dài.
Vì sao đau đầu?
Để thích nghi với nhiệt độ thay đổi bên ngoài môi trường, cơ thể chúng ta cũng tự điều chỉnh nhằm tạo mức quân bình. Ví dụ: Thân nhiệt cơ thể trung bình bao giờ cũng khoảng 370C. 
Trời lạnh, máu trong người cũng bị ảnh hưởng lạnh, khi máu đi ngang qua vùng đồi thị sau não, các trung tâm giao cảm ở đó bị kích thích khiến mạch máu ngoại biên co lại, da gà nổi lên... làm cho thân nhiệt cũng tăng. Ngược lại, nếu nhiệt độ quá cao làm máu trở nên nóng, các trung tâm đối giao cảm bị kích thích sẽ khiến giãn mạch máu ngoại biên, gây xuất mồ hôi... và nhiệt độ cơ thể cũng giảm xuống.
Trường hợp đi nắng về, cảm giác đầu, mặt nóng, nếu bạn rửa mặt ngay sẽ thấy mát mẻ nhưng sau đó "bộ máy điều hòa nhiệt lượng" cơ thể hoạt động dẫn những hơi nóng còn lại trong cơ thể đến vùng mặt (đang mát do vừa được rửa bằng nước) và kết quả là mặt bạn nóng bừng trở lại.
Hơi nóng đưa lên đầu sẽ khiến chúng ta bị đau đầu. Nếu việc này xảy ra thường xuyên (nhất là vào mùa nắng nóng), chứng đau đầu sẽ càng ngày càng khó chịu hơn…
Đông y có bài thuốc nào giảm đau đầu?
Giải pháp để tránh bị đau đầu trong trường hợp này là làm ngược lại thao tác trên: nên rửa chân tay trước (nhất là vùng chân) sau khi đi nắng về. Theo nguyên lý điều hòa nhiệt lượng, hơi nóng ở đầu mặt và toàn thân sẽ được chuyển xuống chân và thoát ra ngoài qua các lỗ chân lông.
Lúc thân nhiệt hơi dịu, mới rửa mặt thì toàn cơ thể sẽ được hạ nhiệt đều, không gây tổn hại đến các phần khác trong cơ thể.
Nhiều người vì lâu ngày chứng đau đầu dai dẳng khó khỏi, nên dùng bài thuốc sau để trục hết hơi nóng ra, làm cho đầu nhẹ nhàng, thanh thản:
- Hương nhu (tươi): 10g (hoặc 6g nếu dùng khô), cúc hoa (lựa loại màu vàng tốt hơn): 16g. Cho vào bình đựng trà, rót khoảng 100ml nước sôi, đậy nắp, để khoảng 10 phút cho thuốc thấm ra. Uống lúc thuốc ấm, sáng và chiều. Uống khoảng 7 ngày, khi cảm thấy hết đau đầu, bỏ vị hương nhu, chỉ cần dùng cúc hoa, hãm uống như nước trà hàng ngày.
Hương nhu là vị thuốc chủ yếu dùng trị cảm nắng, trúng nắng, trừ được hơinắng nóng (thử khí) đã được dùng từ thời xa xưa.
Cam cúc hoa, theo Đông y, đi vào kinh Can, có tác dụng thanh đầu, minh mục (làm nhẹ đầu, sáng mắt). Y lý Đông y cho rằng tạng Can có liên hệ với mắt (Can khai khiếu ở mắt), ngoài ra, đường kinh Can có một nhánh (gọi là kinh Can biệt) đi lên đỉnh đầu, vì vậy, bệnh ở mắt, đỉnh đầu, có thể dùng những vị thuốc điều chỉnh ở tạng hoặc kinh Can để điều hòa các rối loạn đó.
Sự phối hợp hai vị thuốc hương nhu, cúc hoa, vừa trừ được hơi nóng, vừa làm cho nhẹ đầu, sáng mắt. Trà hương nhu cúc hoa uống vào, vừa cảm nhận được hương thơm, vừa cho cảm giác lâng lâng, nhẹ nhàng, sảng khoái!
Theo LY.BS Hoàng Duy Tân - Phụ nữ TPHCM

Viêm nang lông: Dễ mắc, điều trị kéo dài

Viêm nang lông là bệnh khá phổ biến trong mùa nắng nóng. Tình trạng viêm nhiễm này thường xảy ra ở các vùng da ẩm ướt như nách, bẹn, mông…

Tuy không phải là bệnh nguy hiểm nhưng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng sống (nhọt gây sẹo và mất tóc vĩnh viễn). Đáng nói, bệnh rất dễ mắc, dễ tái phát, việc điều trị thường kéo dài.
BS Lâm Bình Diễm, Bệnh viện Q.2 (TPHCM) cho biết, viêm nang lông(VNL) gây tổn thương da, thể hiện bằng những mụn mủ, sẩn hoặc sẩn - mụn mủ ở nang lông, chung quanh có quầng viêm đỏ và có thể thấy sợi lông xuyên qua. Các vị trí thường gặp là da đầu, mặt, nách, vùng mu và mặt duỗi tứ chi. Khi mụn vỡ để lại vết nhỏ và đóng vảy tiết. Bệnh thường gây ngứa (nhất là ở da đầu, mặt) và hay tái phát.
VNL xuất phát từ một nhiễm trùng của các nang lông do vi khuẩn, vi-rút hoặc nấm. VNL là hiện tượng viêm nguyên phát của nang lông do nhiều nguyên nhân nhiễm trùng và cũng có thể thứ phát do chấn thương hoặc băng kín nang lông. Nguyên nhân phổ biến nhất của VNL là vi khuẩn Staphylococcus aureus.
VNL nông thường gặp nhất là do tụ cầu vàng. Tuy vậy, tụ cầu vàng cũng có thể gây viêm sâu lan xuống toàn bộ nang lông (sycosis), gây ngứa. Bệnh hay tái phát khi không loại được các yếu tố thuận lợi như môi trường ô nhiễm, nóng ẩm. Ngoài ra, bệnh có thể do vi khuẩn gram âm, Pseudomonas, Proteus..., nấm men, nấm sợi, nhiễm vi-rút herpes, và ký sinh vật demodex. Cụ thể:
- VNL do vi khuẩn gram âm: có hai dạng - dạng mụn mủ nông quanh mũi và dạng cục hoặc nang ở sâu. Bệnh thường xảy ra trên những người sử dụng kháng sinh kéo dài trong điều trị mụn trứng cá, đôi khi việc điều trị kém hiệu quả, mụn trứng cá nặng hơn với hai dạng: mụn mủ nông và tổn thương sâu.
- VNL do nấm sợi: biểu hiện ban đầu là nhiễm nấm ở lớp sừng quanh miệng nang lông, sau đó lan vào sâu trong nang lông. Nấm da và nang lông có thể thấy ở đầu với các biểu hiện khác nhau do các chủng nấm khác nhau gây nên.
- VNL do nấm Malassezia: thời tiết nóng và ẩm là yếu tố thuận lợi gây bệnh. Khi mắc bệnh, bề mặt da nổi các sẩn ngứa và mụn mủ ở nang lông vùng lưng, cánh tay, đôi khi có ở gáy, mặt. Các thương tổn này giống như trứng cá nhưng không có nhân mụn.
- Nấm men Candida albicans thường xảy ra ở vùng bị băng bịt hoặc bị nóng ẩm lâu ngày (vùng da băng bịt bằng plastic, bôi kem corticoid...). Nhiễm nấm candida nang lông gây các mụn mủ thành đám.
- VNL do nhiễm vi-rút herpes: thường xảy ra ở vùng râu cằm, ria mép do cạo râu. Các mụn nước nang lông ở vùng râu tạo thành đám như chùm nho, sau vài ngày đóng vảy tiết. Bệnh tự khỏi, không để lại sẹo nhưng thườngtái phát.
- VNL do Demodex: do nhiễm Demodex folliculorum, gây bong vảy da xung quanh nang lông, biểu hiện giống như viêm da tiết bã nhờn hoặc sẩn-mụn mủ đỏ nang lông như trứng cá đỏ ở mặt.
- VNL ái toan là VNL không do nhiễm trùng, hiếm gặp, thường xảy ra ở người suy giảm miễn dịch với tổn thương là chùm mụn nước, mụn mủ, ngứa dữ dội. Bệnh kéo dài dai dẳng.
VNL do nhiều tác nhân gây ra, nên cần thực hiện các xét nghiệm nhằm tìm đúng tác nhân gây bệnh. Vấn đề đáng ngại nhất của VNL là để lại sẹo, đặc biệt là vùng tóc.
VNL dạng nhẹ có thể sử dụng kháng sinh thoa tại chỗ, nếu nặng thì dùng kháng sinh kháng nấm, kháng vi-rút toàn thân. Để ngăn chặn biến chứng, nên đi khám bác sĩ chuyên khoa để được điều trị đúng. Phòng ngừa VNL tốt nhất là vệ sinh sạch sẽ, không gây chấn thương (không gãi, không mặc quần áo quá chật, cạo râu cẩn thận…).
Theo Thiên Nga - Phụ nữ TPHCM

Nguy hại chết người từ viêm tủy răng và nguyên nhân gây nên

Hiện nay bệnh lý tủy răng là một bệnh hay gặp và khá phổ biến, bạn hãy biết cách phòng ngừa và điều trị sớm nếu bị.

Tủy răng là một tổ chức liên kết chứa nhiều mạch máu và thần kinh nằm ở giữa răng, có ở cả thân răng và chân răng. Nguyên nhân gây viêm tủy răng thường bắt đầu từ việc sâu răng không được chữa trị và các nguyên nhân khác như mẻ răng, mòn răng, viêm quanh chân răng...
viêm tủy răng
Hiện nay bệnh lý tủy răng là một bệnh hay gặp và khá phổ biến.

Nguyên nhân gây viêm tủy
Viêm tủy thường bắt đầu từ sâu răng không chữa trị kịp thời, những vi khuẩn tồn tại ở trong miệng, xâm nhập tuỷ răng chủ yếu qua các lỗ sâu và gây bệnh. Bệnh tủy răng còn do các nguyên nhân khác như vỡ hay mẻ răng, do chấn thương làm đứt mạch máu nuôi tủy răng, mòn răng quá nhiều, viêm tủy do viêm quanh răng.
Tác nhân gây viêm tuỷ răng thường gặp nhất là vi khuẩn. Chúng tồn tại ở trong miệng, xâm nhập tủy răng chủ yếu qua các lỗ sâu và cuống răng... Ngoài ra, hóa chất (nhiễm độc chì, thủy ngân...), sang chấn, thay đổi áp suất môi trường... cũng có thể gây viêm.
Biểu hiện của viêm tủy răng
Biểu hiện của viêm tủy răng là người bệnh thấy đau răng nhất là vào ban đêm, nặng hơn sẽ thấy đau dữ dội khi lọt thức ăn vào lỗ sâu hay uống nước lạnh. Viêm tủy răng được chia thành 3 loại là viêm tủy răng có hồi phục, viêm tủy răng cấp tính và viêm tủy mạn tính.
Hậu quả của viêm tủy răng
Tủy răng viêm sẽ bị sung huyết. Răng chết tủy không được điều trị dẫn đến viêm quanh chóp chân răng, áp xe quanh chóp răng, và có thể sẽ phát sinh các biến chứng như viêm quanh cuống răng, rụng răng, viêm xương, viêm hạch rất nguy hại cho sức khoẻ.
Vì thế, khi răng có các biểu hiện bất thường như đau, miệng có mùi hôi thì phải tới bác sĩ chuyên khoa để khám. Bên cạnh đó, phải biết chăm sóc răng miệng đúng cách và khám răng định kỳ.
Theo Thanh Lê - Khỏe và Đẹp

Bạn luôn cảm thấy mệt mỏi, vì sao?

1. Không tập thể dục khi mệt mỏi

Theo nghiên cứu của Đại học Georgia, người lớn thường ít vận động và sống không lành mạnh nên luôn cảm thấy mệt mỏi. Để tăng cường sức khỏe, bạn nên duy trì tập luyện 20 phút mỗi ngày. Đặc biệt, những bài tập về độ bền sẽ giúp cho hệ thống tim mạch làm việc hiệu quả, cung cấp oxy và chất dinh dưỡng đến các mô tốt hơn.
Do vậy, thay vì nằm dài trên giường khi mệt mỏi, bạn hãy vận động như đi dạo để xóa tan cảm giác khó chịu này.
Bạn luôn cảm thấy mệt mỏi, vì sao? - ảnh 1

Điệu bộ uể oải, mệt mỏi luôn trông rất chán đúng không? (Ảnh minh họa: Internet)

2. Không uống đủ nước

Amy Goodson, một chuyên gia dinh dưỡng về y học thể thao tại Trung tâm Texas Health Ben Hogan (Mỹ) cho biết, nếu bạn không uống đủ nước, thậm chí chỉ thiếu 2% so với bình thường, cũng khiến tổn hao năng lượng, làm giảm thể tích của máu. Điều đó khiến tim hoạt động kém hiệu quả, ảnh hưởng đến quá trình cung cấp oxy và chất dinh dưỡng đến các cơ quan.

3. Thiếu sắt

Khi cơ thể thiếu sắt, bạn sẽ cảm thấy chậm chạp và không thể tập trung. Tình trạng này xảy ra là do lượng oxy không được cung cấp đầy đủ đến các cơ và tế bào.
Bạn có thể tiêu thụ các loại thực phẩm giàu sắt như thịt nạc, đậu tây, đậu phụ, trứng (bao gồm cả lòng đỏ), các loại rau lá xanh đậm, các loại hạt, bơ đậu phộng để cải thiện vấn đề này.
Lưu ý, tình trạng thiếu sắt có thể cảnh báo sức khỏe của bạn đang gặp vấn đề. Vì vậy, bạn nên đến gặp bác sĩ để được tư vấn kịp thời.

4. Bỏ bữa ăn sáng

Ăn sáng giúp kích hoạt sự hoạt động trong cơ thể bằng sự trao đổi chất. Vì vậy, nếu bỏ qua bữa ăn này, bạn sẽ rơi vào trạng thái mệt mỏi.
Theo các chuyên gia, bạn nên tiêu thụ ngũ cốc, protein trong thịt nạc và chất béo lành mạnh vào buổi sáng để cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cho cơ thể.
Bạn luôn cảm thấy mệt mỏi, vì sao? - ảnh 2

'Kết thân' với đồ ăn nhanh là lý do khiến bạn không thể 'xốc' nổi tinh thần lên được (Ảnh minh họa: Internet)

5. Sống cùng thức ăn nhanh

Các loại thực phẩm đóng hộp, đồ ăn nhanh sẽ khiến lượng đường trong máu liên tục tăng gây ra mệt mỏi. Vì vậy, thay vì sử dụng loại đồ ăn này, bạn nên tiêu thụ protein trong thịt nạc cùng với ngũ cốc nguyên hạt vào mỗi bữa ăn. Sự lựa chọn tốt dành cho bạn là gà (nướng, chiên) và gạo nâu, cá hồi, khoai lang, hoặc salad, trái cây.

6. Uống rượu trước khi đi ngủ

Một vài ly rượu được xem là cách thư giãn tốt trước khi đi ngủ, nhưng nó cũng có thể phản tác dụng. Các chuyên gia cho biết ban đầu rượu làm suy yếu hệ thống thần kinh trung ương, giúp an thần, nhưng cuối cùng nó phá hoại sự duy trì giấc ngủ, khiến bạn có thể thức dậy vào giữa đêm. Vì vậy, bạn không nên uống rượu 3 - 4 giờ trước khi đi ngủ.
Theo Quỳnh Như/News.zing.

6 nguyên tắc bơi lội trong thời tiết 40 độ

Theo Trung tâm khí tượng thủy văn Trung ương, ngày hôm nay (30/5) là đỉnh điểm của đợt nóng kỷ lục tại miền Bắc, miền Trung trong suốt nhiều năm qua. Nhiệt độ cao nhất là 40 - 41oC, đặc biệt, nhiệt độ ngoài trời có nơi lên tới 43 - 44oC, kèm theo đó là độ ẩm thấp khiến cái nóng càng trở nên ngột ngạt và bỏng rát.
Đỉnh điểm của đợt nắng nóng lại rơi đúng vào ngày cuối tuần nên các bể bơi công cộng, khu vực sông hồ được dự báo là sẽ xảy ra tình trạng quá tải.
Bơi lội không chỉ là hoạt động thể thao lành mạnh mà còn là một cách giải nhiệt rất hiệu quả trong những ngày hè. Tuy nhiên, với thời tiết lên đến hơn 40oC như hôm nay, mọi người nên lưu ý những điều sau:

Không bơi lội trong giờ cao điểm nắng nóng

Từ 11 - 16 giờ là khoảng thời gian đỉnh điểm nắng nóng trong ngày. Đây là lúc tia cực tím từ mặt trời hoạt động mạnh mẽ nhất. Bơi lội ở ngoài trời trong thời điểm này có thể gây hại cho làn da, làm da bỏng rát, cháy nắng và tăng nguy cơ ung thư da.
Thời điểm thích hợp nhất để bơi ngoài trời là buổi sáng từ 6 - 9 giờ và buổi chiều từ 17 - 20 giờ. Nếu không thể sắp xếp được thời gian thích hợp, tốt nhất nên chọn bơi ở bể bơi có mái che, khuất nắng.
6 lưu ý khi bơi lội trong thời tiết 40 độ - ảnh 1

Nên chọn bơi ở bể bơi có mái che, khuất nắng

Không bơi lội khi ra nhiều mồ hôi

Cơ thể tiết ra nhiều mồ hôi đồng nghĩa với việc nhiệt độ cơ thể đang ở mức cao. Nếu nhảy ngay xuống nước khi cơ thể chưa ráo mồ hôi, thân nhiệt sẽ bị thay đổi đột ngột, dễ dẫn đến hiện tượng đột quỵ.
Ngoài ra, lỗ chân lông mở rộng khi cơ thể tăng tiết mồ hôi còn tạo điều kiện cho hơi nước ngấm vào cơ thể. Đây là nguyên nhân của tình trạng ho, sốt, cảm, nặng hơn là viêm phổi.

Không bơi lội quá lâu

Ngâm mình quá lâu dưới nước khiến nhiệt độ cơ thể bị hạ thấp. Khi đó, rất dễ bị cảm lạnh hoặc ảnh hưởng đến hệ tuần hoàn, tim mạch.
Theo các chuyên gia y tế, đối với người lớn, một lần bơi không nên quá 1 giờ. Thời gian bơi thích hợp cho người già và trẻ nhỏ là 30 - 45 phút. Người khỏe mạnh 1 tuần chỉ bơi tối đa 3 lần. Đặc biệt, không bơi liên tục trong 3 giờ, không cố bơi khi thấy trong người không khỏe.
6 lưu ý khi bơi lội trong thời tiết 40 độ - ảnh 2

Ngâm mình quá lâu dưới nước khiến nhiệt độ cơ thể bị hạ thấp

Cẩn thận khi bơi lội ở sông hồ

Sông, hồ là khu vực rất nguy hiểm cho hoạt động bơi lội do có nhiều khu vực sụt lún, đá ngầm, không có cứu hộ và đặc biệt chất lượng nguồn nước không được đảm bảo. Do đó nên hạn chế bơi lội ở những nơi này.
Nếu bơi lội nên tránh những khu vực nước sâu, có biển cảnh báo nguy hiểm. Nên chọn khu vực nước trong, không có nhiều rác thải. Đặc biệt, đối với trẻ em, những người không biết bơi cần có người lớn và người bơi giỏi đi kèm.

Không bơi lội ở bể bơi quá đông người

Bể bơi quá tải luôn tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây bệnh do nguồn nước bị ô nhiễm. Ngoài các chất khử trùng như clo, sunfat đồng, cloramin B, khi quá đông người cùng bơi, lội, nước bể bơi còn tiếp nhận thêm vô số tạp chất như tế bào da chết, tóc, mồ hôi, nước tiểu, các loại mỹ phẩm… Điều này khiến nguy cơ mắc các bệnh về da, mắt, hệ hô hấp, hệ tiêu hóa và viêm nhiễm phụ khoa tăng cao.
6 lưu ý khi bơi lội trong thời tiết 40 độ - ảnh 3

Bể bơi quá tải luôn tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây bệnh

Khởi động kĩ trước khi bơi lội

Khởi động kĩ trước khi xuống nước giúp làm ấm cơ thể và căng các cơ, xương khớp, do đó, tránh được hiện tượng chuột rút. Nên khởi động ít nhất 10 - 15 phút trước khi bơi.
Ngoài ra, cũng cần chú ý không bơi khi quá đói cũng như khi quá no. Bơi khi đói có thể xảy ra tình trạng mệt lả, mất sức. Trong khi đó, bơi khi quá no dẫn đến hiện tượng đau bụng, buồn nôn…
Trước khi bơi chỉ nên ăn nhẹ và nên bơi sau khi ăn 1 giờ. Ngoài ra, nên bổ sung đủ nước trước, trong và sau khi bơi.
Ảnh minh họa: Internet

Ai nên và không nên tiêm vắc-xin viêm não Nhật Bản

Tiêm vắc-xin hiện là biện pháp phòng bệnh hiệu quả nhất. Tuy nhiên, cần lưu ý:

Những đối tượng nên tiêm vắc-xin viêm não Nhật Bản

- Khuyến khích dùng cho những người sống trong vùng có lưu hành bệnh viêm não Nhật Bản, nhất là với trẻ em từ 1 đến 15 tuổi. Trẻ em từ 1 đến 5 tuổi được tiêm theo chương trình tiêm chủng mở rộng.
- Khách du lịch/người đi lao động, công tác/ người nhập cư đến từ vùng không có miễn dịch, có thời gian lưu trú hơn 1 tháng ở vùng nông thôn và hơn 12 tháng ở thành phố nơi có bệnh VNNB lưu hành.
Người nên và không nên tiêm vắc-xin viêm não Nhật Bản - ảnh 1

Tiêm vắc-xin hiện là biện pháp phòng bệnh viêm não Nhật Bản hiệu quả nhất (Ảnh minh họa: Internet)

Những trường hợp không được tiêm hoặc hoãn tiêm vắc-xin viêm não Nhật Bản

- Những người có cơ địa quá mẫn với thiomersal hoặc với các chế phẩm của não chuột, có dị ứng với vắc-xin viêm não Nhật Bản lần tiêm trước.
- Những người đang sốt cao hoặc mắc bệnh nhiễm khuẩn đang tiến triển.
- Những người đang mắc bệnh tim, gan, thận, đái tháo đường giai đoạn nặng, bệnh ung thư máu và các bệnh ác tính.
- Không sử dụng cho trẻ em dưới 12 tháng tuổi và phụ nữ có thai.
- Người nhiễm HIV đã chuyển thành AIDS.

Dùng bột sắn dây ngày hè: Thế nào cho hiệu quả?

Trong những ngày hè nắng nóng đỉnh điểm như hiện nay, việc sử dụng sắn dây để pha thành nước uống hay dùng để chế biến đều sẽ giúp cơ thể trở nên khoan khoái và dễ chịu hơn. Theo nhiều nghiên cứu khoa học, bột sắn dây có khá nhiều tác dụng như: Làm giảm đường huyết, chống loạn nhịp tim, chống lão hóa da và ung thư, nâng cao sức chịu đựng của cơ thể khi bị thiếu oxy, thanh nhiệt…
Sắn dây vốn là nguyên liệu dân dã, quen thuộc với chúng ta, tuy nhiên không phải ai cũng biết cách sử dụng cho đúng. Thậm chí, một số còn có những lầm tưởng tai hại về bột sắn dây, khiến chúng không thể phát huy hết dược tác dụng vốn có.

Những lầm tưởng

-  Bột sắn dây gây ra sỏi thận: Theo các chuyên gia dinh dưỡng, thành phần có trong thực phẩm này chủ yếu là tinh bột, không chứa nhiều chất kali. Chính vì vậy khả năng tạo sỏi là rất ít. Do đó, bạn hoàn toàn có thể uống mà không lo bị sỏi thận.
- Bột sắn với mật ong gây chết người: Thực tế thì sự kết hợp này không hề nguy hiểm như nhiều người vẫn nghĩ. Nguyên do là vì 2 loại thực phẩm này đều không nằm trong nhóm tương khắc nhau, vì vậy mà không gây ảnh hưởng cho sức khỏe của con người.
Bột sắn dây: Sử dụng thế nào cho hiệu quả? - ảnh 1

Trong những ngày hè nắng nóng đỉnh điểm như hiện nay, việc sử dụng sắn dây để pha thành nước uống hay dùng để chế biến đều sẽ giúp cơ thể trở nên khoan khoái và dễ chịu hơn (Ảnh minh họa: Internet)

Và cách uống tốt nhất cho sức khỏe

Thay vì những suy nghĩ không đúng, bạn cần tìm hiểu thật kỹ lưỡng cách sử dụng bột sắn dây sao cho tốt nhất cho sức khỏe. Sau đây là một số lưu ý cơ bản dành cho bạn:
- Không nên uống quá nhiều 1 ly sắn dây/ngày, nên uống chín để đảm bảo sức khỏe. Lưu ý, bạn chỉ nên cho thêm 1 chút đường, không nên uống với quá nhiều đường.
- Nhiều người thường có thói quen ướp hoa bưởi vào bột để nước có mùi vị thơm ngon hơn. Tuy nhiên, đây là thói quen không được đúng đắn, bởi vì hoa bưởi sẽ làm giảm đáng kể dược tính của sản phẩm.
- Bột có tính hàn rất mạnh. Chính vì vậy, nếu cho trẻ em sử dụng tinh bột sắn dây ở dạng 'sống', các bé dễ bị lạnh bụng và có thể bị tiêu chảy. Chính vì vậy bạn nên nấu chín khi cho trẻ ăn.
- Đối với phụ nữ mang thai, cơ thể thường bị nóng, nếu uống nước sắn dây sẽ rất tốt. Tuy vậy, nếu bạn thấy người mình đang bị lạnh, cơ thể yếu ớt, mỏi mệt, có biểu hiện huyết áp bị tụt tuyệt đối không nên uống vì chúng có thể khiến cơ thể mệt mỏi hơn.
Bột sắn dây: Sử dụng thế nào cho hiệu quả? - ảnh 2

Không nên uống quá nhiều 1 ly sắn dây/ngày, nên uống chín để đảm bảo cho sức khỏe (Ảnh minh họa: Internet)

Lựa chọn bột sắn dây nguyên chất

Hiện nay ở nước ta có hai loại là sắn dây ta và sắn dây Trung Quốc. Sắn dây Trung Quốc thường có lượng bột nhiều hơn, nhưng khả năng giải nhiệt và hương thơm thì không bằng sắn dây ta. Chưa kể trên thị trường hiện nay, nhiều người bán thường trộn lẫn lộn bột sắn dây với các loại bột thường.
Bột sắn thật hạt to, màu trắng tinh khiết, các hạt góc cạnh và có hương thơm đặc trưng tự nhiên, khô ráo và không bị ẩm mốc. Khi đưa bột lên miệng cắn, bạn sẽ cảm nhận thấy vị giòn tan, ấm nơi đầu lưỡi và tan nhanh trong miệng, cảm thấy mềm mịn và không có bất cứ hạt sạn nào.
Còn bột sắn dây giả chứa nhiều tạp chất thì hạt thường không sắc cạnh, nhỏ, màu không được trắng tự nhiên, không có mùi thơm hoặc nếu có thì rất nặng mùi. Khi bạn cắn thử bột sắn dây sẽ cảm thấy bột bị mềm, không có vị giòn tan.
Bên cạnh đó, bạn tránh mua loại bột sắn dây đã được ướp hoa bưởi vì sẽ dễ bị mốc hoặc có thể do người làm giả bột sắn ướp hoa bưởi lên trên để khử bớt mùi ẩm mốc của bột sắn giả. Do vậy, bạn chỉ nên mua những gói bột sắn dây thật khô, giòn mới để được lâu dài. Bạn cũng có thể mua củ sắn dây tươi để tự chế biến hoặc có thể thuê những cơ sở uy tín cho đảm bảo vệ sinh.

Thuốc chống xơ vữa có sẵn ngoài vườn

Không thiếu bệnh nhân xanh mặt khi nhận chẩn đoán “xơ vữa mạch máu”, cứ như mạch máu bị tắc trên... mặt! Lo là phải, vì bệnh không dễ chữa, vừa tốn tiền vừa tốn thời gian vì liệu pháp khó lòng chấm dứt trong vài tuần, thậm chí vài tháng!
Bệnh xơ vữa động mạch tăng
Xơ vữa mạch máu do chất vôi, chất mỡ đóng vào thành mạch không chỉ là nguyên nhân gây tắc nghẽn mạch với hậu quả nghiêm trọng như tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim, nếu xảy ra ở chỗ nhược như vỏ não, thành tim. Đó là dấu hiệu cho thấy tình trạng lão hóa đã theo chân rối loạn biến dưỡng để chiếm thế thượng phong. Hiểu vậy nên thầy thuốc khắp nơi đã từ lâu cổ động cho biện pháp phòng chống xơ vữa động mạch, từ giảm cân, tăng vận động cho đến chế độ dinh dưỡng chống tăng mỡ máu.
Khuyên là một chuyện, nghe là chuyện khác. Hiểu là một chuyện, thực hiện được hay không cũng là chuyện khác. Thành thật mà nói, bên cạnh những lý do lực bất tòng tâm, cũng phải thông cảm là nhiều người không dễ tuân thủ lời khuyên của thầy thuốc trong bối cảnh căng thẳng của cuộc sống hiện nay. Do đó, không lạ gì nếu số nạn nhân của tình trạng xơ vữa mạch máu đang và sẽ tiếp tục tăng cho dù ngành y mỗi lúc một tiến bộ.
Một số rau quả có tác dụng thông mạch tốt hơn các món khác. Ảnh: Tấn Thạnh
Một số rau quả có tác dụng thông mạch tốt hơn các món khác. Ảnh: Tấn Thạnh
Chế dộ dinh dưỡng nhiều rau quả
Đáng nói hơn nhiều là định kiến hễ đã xơ vữa thì hết đường cứu chữa. Đa số thầy thuốc cũng vì thế nên áp dụng chiến thuật làm sao để đừng xơ thêm, đừng vữa tiếp là hay rồi.
Đáng tiếc vì các nhà nghiên cứu ở Mỹ đã chứng minh qua nhiều công trình nghiên cứu là phần nào vẫn có thể phục hồi mạch máu đã chai cứng nếu kiên nhẫn áp dụng chế độ dinh dưỡng với tỉ lệ rau quả chiếm không dưới 70% của khẩu phần. Họ cũng đã xác minh qua mô hình nghiên cứu với cả trăm bệnh nhân đã được thông tim là mạch máu trở nên thông thoáng sau 2 năm đồng hành với rau quả, thay vì mạnh miệng với thịt cá. Hơn thế nữa, kết quả khảo sát cho thấy một số gia vị và rau quả rõ ràng có tác dụng thông mạch tốt hơn các món khác, như tỏi, hành, nghệ, gừng, cà rốt, cần tây, rau dền, táo tây, trà xanh, cà phê xanh... Cũng theo các nhà nghiên cứu, muốn tối ưu hóa tác dụng rửa mạch máu cần mỗi tuần 3 ngày có tất cả bữa ăn chỉ toàn rau quả tươi. Trong khi đó, các nhà nghiên cứu ở ĐH Hannover (CHLB Đức) quả quyết là thói quen ngày 5 lần, mỗi lần không hơn 50 g trái cây, là phương pháp hiệu quả để phòng chống chất sinh ung thư đang tràn ngập trong môi trường ô nhiễm, thực phẩm công nghệ, hóa chất gia dụng...
Phục hồi mạch máu xơ vữa
Đi xa hơn nữa, GS Verlangieri ở ĐH Mississippi (Mỹ) đã chứng minh là mạch máu dù bị xơ vữa vẫn có thể phục hồi với các loại rau cải, mễ cốc chứa nhiều sinh tố E. Đó là lý do tại sao chuyên gia này đặt 2 món giá sống và rau mầm vào vị trí thậm chí cao hơn thuốc đặc hiệu trong phác đồ điều trị. Công trình nghiên cứu của Verlangieri đồng thời là dẫn chứng cho thấy tại sao sinh tố E thiên nhiên có lợi thế hơn sinh tố tổng hợp mặc dù thuốc chứa sinh tố E tổng hợp thường có hàm lượng cao hơn trong thực phẩm. Không dễ gì thay thế được món ăn nên thuốc có sẵn trong trời đất.
Với cuộc sống càng lúc càng xa rời quy luật của thiên nhiên, xơ vữa mạch máu là thực tế khó tránh. Nhưng nói thế không có nghĩa là phải chịu trận được bao lâu hay bấy nhiêu. Rõ ràng, không thiếu phương pháp sinh học để không chỉ cầm chân mà thậm chí đẩy lùi đối phương dù chỉ một bước nhỏ.
Theo Bác sĩ Lương Lễ hoàng, Báo Người Lao Động

Dấu hiệu suy nhược thần kinh

Suy nhược thần kinh tạo vòng xoắn bệnh lý cứ từng ngày, từng ngày “nhấn chìm” con người ta; từ giảm kiểm soát hành vi và khả năng lao động, tư duy tới mất kiểm soát, mất khả năng lao động chỉ là vấn đề thời gian nếu không có sự can thiệp của thầy thuốc,...
Suy nhược thần kinh là bệnh tâm căn phổ biến hiện nay mà nhiều người gọi nó là bệnh thời đại. Bệnh gặp ở người lao động trí óc nhiều hơn lao động chân tay, ở thành thị nhiều hơn ở nông thôn, nam chiếm nhiều hơn nữ, tuổi thường gặp 20-50 tuổi.
Khi có biểu hiện suy nhược thần kinh, cần đến khoa tâm thần để được khám và điều trị sớm. Ảnh: Trần Minh
Khi có biểu hiện suy nhược thần kinh, cần đến khoa tâm thần để được khám và điều trị sớm. Ảnh: Trần Minh
Dấu hiệu thường gặp nhất của suy nhược thần kinh là mệt mỏi. Mệt mỏi là trạng thái cơ thể mà mọi người đều có: ở người bình thường do vận động thể lực quá độ, lao động thể lực quá nặng nề dẫn đến mệt mỏi. Mệt mỏi bình thường thì dễ phục hồi, chỉ cần có thời gian nghỉ ngơi điều chỉnh, bổ sung dinh dưỡng, ngủ một giấc sẽ lấy lại sức lực như cũ. Mệt mỏi do suy nhược thần kinh thì dường như không có nguyên nhân, nghỉ ngơi bồi dưỡng thế nào cũng khó phục hồi được thể lực, thậm chí càng ngủ càng cảm thấy mệt. Sự mệt mỏi tăng lên sau hoạt động trí óc hoặc do suy yếu cơ thể. Đi kèm với mệt mỏi là trạng thái tinh thần bực bội, khó chịu, không yên, suy nghĩ lung tung, khó đi vào giấc ngủ. Khả năng làm việc giảm sút do tình trạng mệt mỏi, giảm khả năng tập trung. Đi kèm với mệt mỏi là tim hồi hộp đập nhanh, tức ngực thở gấp, chán ăn, khó chịu ở dạ dày, đôi khi tiêu chảy, táo bón, kinh nguyệt không đều, chóng mặt, thiếu máu... khiến người bệnh hoài nghi có bệnh nặng trong cơ thể, nhưng thăm khám và làm các xét nghiệm thăm dò chỉ phát hiện một vài vấn đề rất nhỏ.
Một biểu hiện rất điển hình nữa của suy nhược thần kinh là người bệnh luôn nghĩ rằng mình có bệnh như: khi đau đầu cho là hay là mình bị u não, hồi hộp cho là bị bệnh tim, khó chịu trong dạ dày cho là bị viêm loét hoặc ung thư dạ dày. Mặc dù đã được khám toàn diện cẩn thận xét nghiệm nhiều lần, thậm chí chụp CT, điện não đồ, kiểm tra cộng hưởng từ... đều cho thấy các tổ chức cơ quan hoàn toàn tốt, nhưng vẫn không thể loại bỏ được hoài nghi trong đầu người bệnh. Họ cho rằng bệnh của mình rất đặc biệt và vẫn tìm cách gì đó để được khám bệnh và tìm ra bệnh.
Ăn uống, ngủ, học tập, làm việc hợp lý để phòng tránh suy nhược thần kinh.
Bệnh suy nhược thần kinh có thể chữa khỏi và phòng ngừa
Nguyên nhân của bệnh phần lớn là do áp lực tinh thần, vì vậy để phòng bệnh cần giải quyết vấn đề tinh thần trước. Muốn loại bỏ sự mệt mỏi do suy nhược thần kinh phải bắt đầu từ vấn đề điều chỉnh tâm lý trên khía cạnh tinh thần.
Bệnh thần kinh suy nhược có thể chữa khỏi và phòng ngừa được. Người bệnh suy nhược thần kinh cần chú ý đến những điểm sau đây: xây dựng mối quan hệ tốt giữa các thành viên trong gia đình, cơ quan, tập thể, tránh các chấn thương tâm thần mạn tính. Khắc phục các tình trạng căng thẳng, cảm xúc mệt mỏi. Phối hợp hài hòa giữa lao động trí óc và lao động chân tay, giữa lao động với nghỉ ngơi giải trí. Nên tránh tiếng ồn, tiếng động trong khi làm việc cũng như ở môi trường sống, đảm bảo giấc ngủ tốt, rèn luyện thân thể thường xuyên, phát hiện điều trị kịp thời các bệnh thực thể.

BS. Lan Anh

Có thể phục hồi được tế bào thần kinh

Chấn thương sọ não, tai biến mạch máu não, bệnh AlzheimerParkinson làm tổn thương não và làm chết các tế bào não không thể hồi phục được. Nhưng một nghiên cứu của các nhà khoa học Pháp và Bỉ mới được công bố trên tạp chí khoa học Neuron đã cho thấy có thể phục hồi vỏ não ở một con chuột trưởng thành nhờ ghép các tế bào thần kinh. Đó là một khám phá quan trọng vì vỏ não là một trong những cấu trúc phức tạp nhất của não.

Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng các tế bào gốc chiết xuất từ các phôi chuột có thể biến thành những tế bào thần kinh vỏ não với khả năng phục hồi hệ thống thần kinh bị tổn thương. Phương pháp này mới chỉ đang được thử nghiệm ở chuột nhưng nó cho thấy một bước tiến lớn trong nghiên cứu các bệnh về não.
Tạ Phương Thúy (Theo Femmeactuelle.fr, 5/2015)

Ăn uống ngày hè với người cao tuổi

Tiết trời nắng nóng, ngột ngạt khiến người cao tuổi (NCT) mệt mỏi, ăn uống kém và khởi phát một số bệnh mạn tính. Nhưng NCT hoàn toàn có thể phòng tránh được nguy cơ bệnh tật do khí hậu gây ra bằng cách sống hợp lý, ăn uống thích hợp và điều độ.
NCT nên giữ chế độ ăn từ 3 - 4 bữa trong một ngày, đồng thời khoảng cách giữa các bữa đều nhau và nên thực hiện tương đối đúng giờ. Nếu NCT trong mỗi một bữa ăn không ăn được đủ số lượng cần thiết nhất là loại tinh bột (glucid) thì nên ăn tăng thêm bữa (xen vào giữa các bữa chính), ví dụ như vào khoảng 9 giờ sáng, 4 - 5 giờ chiều và khoảng 9 giờ tối. NCT tuổi bị mắc bệnh đái tháo đường đang dùng thuốc giảm đường máu lại cần ăn thêm bữa, vì trong các bữa chính bác sĩ đã có lời khuyên nên ăn hạn chế lượng glucid (cơm, bánh mì...).
Ăn uống ngày hè với người cao tuổi
Mùa hè, người cao tuổi cần ăn nhiều rau quả và bổ sung sữa tươi
Thức ăn không quá cầu kỳ: trong một ngày NCT nên duy trì được chế độ ăn thịt (chất đạm) với các loại khác nhau (thịt, cá, tôm, cua, đậu phụ…), số lượng khoảng từ 1 - 1,2g/kg cân nặng. NCT chỉ nên ăn ít loại thịt đỏ như thịt bò, trâu, ngựa, dê, thịt chó… nhất là những người có bệnh về xương khớp (gút), bệnh đái tháo đường. Những loại thịt đã chế biến sẵn như thịt xông khói, xúc xích, lạp xưởng, thịt hộp cũng nên hạn chế ăn. Hạn chế ăn các loại thứ ăn xào, rán, chiên. Không nên ăn mỡ động vật như mỡ lợn, mỡ bò, mỡ gà, nhất là những người đã được bác sĩ xác định là tăng cholesterol máu, tăng triglycerit máu, tăng huyết áp, xơ vữa động mạch, thiểu năng mạch vành.
Lòng đỏ trứng gà, trứng vịt, chim cút rất tốt nhưng khi NCT có các bệnh về gan, mật (gan nhiễm mỡ, sỏi đường mật…) cũng nên hạn chế ăn. Các loại đường, bánh kẹo, sôcôla, nước giải khát có gas cũng không nên lạm dụng. Hạn chế dùng các loại gia vị như ớt, hạt tiêu, mù tạt. Cũng nên lưu ý không nên ăn các thức ăn tươi, sống như rau sống, gỏi cá, nem chua, tiết canh, nem chạo. Nên ăn cá nhiều hơn ăn thịt, ít nhất ăn từ 2 - 3 lần cá trong một tuần thay cho ăn thịt. Nên ăn nhiều rau, hoa quả tươi như: cam, táo, nho, bưởi… Mỗi ngày nên ăn một quả chuối.
Nên ăn nhiều rau xanh: rau xanh cung cấp các loại sinh tố cần thiết cho cơ thể và chất xơ để giúp cho việc tiêu hóa tốt tránh táo bón.
Không nên uống bia, rượu quá nhiều, cũng không nên uống cà phê nhất là vào buổi tối hoặc những NCT có bệnh về tim mạch, bệnh thận, bệnh đường ruột.
Uống sữa đều đặn: NCT nên uống khoảng từ 100 - 120 ml sữa, vì sự tiêu hóa của NCT thường kém cho nên cần phân ra uống nhiều lần trong một ngày nhằm tránh rối loạn tiêu hóa. Tuy vậy, đối với loại sữa đặc có đường, nên hạn chế uống. NCT cũng nên uống đủ lượng nước (số lượng nước trong một ngày đêm khoảng từ 1,0 - 1,5 lít là vừa đủ). Lượng nước này bao hàm cả lượng nước có trong thức ăn, hoa quả… Về sinh tố, NCT có thể bù đắp lượng vitamin thiếu hụt bằng cách ăn các loại quả như đu đủ, cà chua, cam, táo, xoài… ngoài ra có thể uống thêm mốt số loại vitamin A, B,C do bác sĩ kê đơn, hưỡng dẫn.
Các hoạt động khác
NCT nên tập thể dục hàng ngày đều đặn. Không nên chọn những phương pháp tập thể dục vượt quá sức mình. Tập thể dục bằng các động tác nhẹ nhàng, dễ thực hiện, nhưng thông dụng nhất, dễ thực hiện nhất vẫn là đi bộ. Tuy nhiên, không phải mọi NCT đều có thể đi bộ, vì còn tùy thuộc nhiều điều kiện kèm theo như sức khỏe còn tốt, không mắc một số bệnh như bệnh mạch vành, bệnh hen suyễn nặng, bệnh xương khớp nặng (ví dụ thoái hóa đốt sống thắt lưng kèm có gai đôi hoặc bị lồi đĩa đệm…). Đối với NCT còn khỏe mạnh thì mỗi ngày nên có tổng số giờ đi bộ khoảng 60 phút, nên chia làm 2 - 3 lần.
Những ngày mưa, thời tiết thất thường có thể tập thể dục trong nhà (với điều kiện là nhà đủ rộng). Buổi tối nên nghe tin tức, thời sự qua radio, đọc báo, hạn chế xem vô tuyến vào buổi tối. Một điều rất cần thiết đối với NCT nên đi khám bệnh định kỳ nhất là khi thấy các triệu chứng bất thường. Thuốc điều trị bệnh rất cần có chỉ định của bác sĩ không nên nghe sự mách bảo của người khác.
PGS.TS.TTƯT. BÙI KHẮC HẬU