Phương pháp “Thiền” (Yoga) phát xuất từ Ấn Độ khoảng 6 đến
7 ngàn năm trước, tiếng nguyên thuỷ theo Sanskrit là”yuj” có nghĩa là
kết hợp giữa linh hồn cá nhân (atma) và tinh tuý vũ trụ (paramatma).
Khởi thủy, Thiền được lập ra với mục đích đi tìm sự Khai Ngộ
(Enlightenment), sau đó đã chuyển hóa thành nhiều môn phái Yoga khác.
Mỗi môn phái lại có những tư tuởng chỉ đạo khác nhau như Karma Yoga chú
trọng vào sự Từ Bỏ Bản Ngã, Bhakti Yoga chú tâm về sự Dâng Hiến, Jnana
Yoga, Raja Yoga chỉ quan tâm về Kiến Thức... Những thế, thức tập luyện
cũng khác nhau, có thể bất động, hay động, mỗi thế, thức lại biến hoá
thành nhiều kiểu dáng, khó có thể đếm đuợc hết mọi loại kiểu, thức. Sau
khi được truyền qua các quốc gia khác, nhất là Tây Âu, Thiền tập trung
nhiều về Chữa Bệnh, Điều Hòa Tâm Linh, tìm ra sự An Vui cho cá nhân một
khi tâm thân hợp nhất, khỏe mạnh, và hạnh phúc.
Trong khi đó, “Thiền” (Zen) đặt trọng tâm vào sự suy tuởng có tính
chất tôn giáo, nguyên thuỷ khai sinh từ Ấn Độ với tên gọi từ tiếng
Sanskrit: “dhyàna”, triển khai tại Trung Hoa khoảng thế kỷ thứ 6 duới
thời Tổ Sư Bồ Đề Lạt Ma (Bodhiharma) cũng đồng thời là Tổ Sư cuả môn
phái Thiếu Lâm. Vào thế kỷ thứ 9, Thiền được truyền bá sang Đại Hàn và
được gọi là Seon. Thế kỷ thứ 12, Thiền được phát triển ở Nhật bởi Tổ Sư
Myòna Eisai sau khi Ngài đến Trung Hoa rồi về nuớc, lập ra hệ phái
Linji, còn gọi là Rinzai. Ở Việt Nam, vào khoảng cuối thế kỷ 16, Thiền
Sư Tì Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci) nguời Ấn Độ đến Việt Nam phổ biến về
Thiền, và dưới thời Ngài Thiền Sư Vạn Hạnh, Thiền đuợc phát huy mạnh mẽ
nhất cho đến ngày nay. Trên thế giới, hiện tại, những hình thức về Thiền
rất đa dạng. Ngoài Tu Thiền (Thiền Tông), những nguời thực tập Thiền
còn thể hiện Thiền trên hội hoạ (Tranh Thiền), thi ca (Thơ Thiền), cắm
hoa (Thiền Hoa), trang trí (vuờn Thiền), hay kiến trúc theo Thiền...
Những vuờn cỏ với sỏi trắng đuợc vun theo những đuờng nét đơn sơ nhưng
đầy ý nghĩa cuả Nhật nổi tiếng khắp thế giới và đuợc hàng triệu nguời từ
Đông sang Tây rất hâm mộ.
Vì sự đa dạng về Yoga và Zen như thế, nguời viết đã đặt tên cho phương
pháp phối hợp giữa Yoga và Zen thành “Thiền Công” (Thiền = Tập trung tư
tưởng, Công = khí công, sự vận dụng sức lực tinh thần hay vật chất), để
tránh sự ngộ nhận với Tu Thiền. Và cũng vì mục đích là để tìm sự An
Vui, Hạnh Phúc qua Sức khỏe, không mang tính chất tín nguỡng, trong bài
này, người viết xin bỏ qua khía cạnh liên quan đến tôn giáo và tín
ngưỡng, không đề cập đến “Tu Thiền” mà chỉ nhìn đến phương diện vật lý.
Như vậy, “Thiền Công” là một sinh hoạt thể dục bất động, khép kín, và
cưỡng chế phối hợp với hơi thở để làm trẻ hóa cơ thể, đem lại một sinh
khí mới cho những bộ phận đã bị lão hóa, cùng phát huy sức mạnh tiềm ẩn
trong mỗi con người để sống lâu hơn với một tinh thần minh mẫn trong một
thể xác tráng kiện.
1- Thể dục bất động: Người tập Thiền sẽ đặt mình vào một vị trí bất động trong
một thời gian dài hay ngắn tùy theo cơ thể và sự tập luyện, có thể năm
phút một thế tập hay vài tiếng đồng hồ.
2- Khép kín: Việc tập Thiền phải được thực hiện trong một môi trường kín đáo, không tiếng ồn, để tránh phân tâm.
3- Cưỡng chế: Những động tác Thiền không đơn giản như ngồi thẳng, mà là những thế
cần phải bẻ tay, chân, đầu, cổ, thân, lưng... theo một hướng nào đó.
Tất cả những động tác thể dục bất động này, phối hợp với việc thở đúng
cách sẽ làm trẻ hóa cơ thể và tự trị được một số bệnh. Như chúng ta đã
biết, con người sống được là nhờ đường, nước, và khí Oxy là yếu tố quan
trọng nhất cho sự sống. Thiếu đường, người ta sẽ kiệt sức và chết dần.
Thiếu nước, thì sinh ra đủ thứ bệnh. Nếu thiếu hai yếu tố này, con người
cần phải có những cách điều trị riêng để duy trì được cuộc sống. Nhưng
với Oxy, chỉ cần thiếu ở não trong 2, 3 phút là chết ngay.
Bình thường, máu luân chuyển khí Oxy đến các tế bào một cách quân
bình. Tuy nhiên, nếu có phần nào trong cơ thể phải “gồng” lên, hoặc bẻ
cong đi, máu sẽ luân lưu tại chỗ đó mạnh hơn, như vậy, sẽ mang đến Oxy
nhiều hơn. Vì vậy, nếu chúng ta ép những bộ phận cơ thể theo một hướng
nào đó, chúng ta sẽ làm cho những nơi đó trẻ lại và từ đó, sẽ ngăn được
những căn bệnh sinh ra bởi phần cơ thể thiếu Oxy ấy.
Thiền ở đây là những bài tập thể dục bất động được chia ra hàng trăm
thế đứng, thế nằm, hay thế ngồi và không mang theo một tư tưởng tôn giáo
nào. Người tập sẽ thấy trẻ trung, vui vẻ, chữa được một số bệnh sau khi
tập một thời gian. Nội dung bài viết này,” vì được phối hợp với “Thiền”
trong tư tưởng và “Thở” trong vật lý nên được gọi là “THIỀN CÔNG ” với
mục đích vừa Chữa bệnh, vừa Trẻ hóa cơ thể, vừa tạo được một tinh thần
minh mẫn.
Có bốn thế chính: Ngồi, nằm, đứng, và quỳ. Trong mỗi thế này, lại phân
thành những chi thế nhỏ. Mỗi ngày tập khoảng 1 tiếng đồng hồ, thì chỉ
trong vòng 1 tháng, cơ thể và tinh thần sẽ đổi khác, tươi trẻ hơn, khỏe
mạnh hơn, làm việc bền bỉ hơn, hạnh phúc hơn, và một số bệnh kinh niên
có thể biến mất.
A. NGỒI
1- Toạ thiền:
Ý Nghĩa = Con nguời là trung tâm điểm cuả vũ trụ. Không có Con Người,
Vũ trụ chỉ là con số không. Ngồi xếp bằng tròn, không nhất thiết phải
gác chân lên nhau, hai bàn tay để lên hai đầu gối, ngón trỏ và ngón cái
cuả mỗi tay chạm nhau, lưng thật thẳng (Nếu ngồi cong lưng, sẽ bị đau
lưng, vì xuơng sống sẽ bị cong, chạm vào dây thần kinh làm đau. Nếu
không tự ngồi thẳng đuợc, thì ngồi sát tuờng, cho lưng dưạ vào tuờng.)
Nhắm mắt lại, tập trung tư tuởng, không nghĩ ngợi bất cứ điều gì, rồi
hít vào thật chậm, khi hơi xuống tới bụng (đan điền) thì nén hơi lại và
đếm 1,2,3, 4,5 rồi từ từ thở ra. Trong khi hít vào và thở ra, phải tuởng
tuợng đến luồng khí đi từ lỗ mũi vào trong ngực, xuống bụng, tuởng
tuợng đến hơi thở đang nằm trong bụng, rồi tuởng tuợng đến hơi thở đang
ra ngoài lỗ mũi. Cách dễ nhất để tập trung tư tưởng là trong khi hít vào
thì đếm theo nhịp tim từ 1 đến 10, khi nín thở thì đếm 1 đến 5, khi thở
ra cũng đếm từ 1 đến 10. Sau này, khi quen rồi, thì tăng cường nội lực
lên bằng cách đếm nhiều hơn, thay vì 10, thì đếm đến 15,20. Người giỏi
nhất chỉ đếm đến 20 là phải ngưng. Những ngày đầu tiên, chưa quen, có
thể cảm thấy hơi thốn lưng, nhưng dần sẽ quen và không thấy thốn lưng
nưã. Hít thở từ 10 đến 20 lần.
Thế này trị bệnh tim, mạch, ổn định thần kinh, thăng bằng trí nhớ,
điều trị sau cơn “stroke” hay “heart attack”, chống sự hồi hộp, lo
lắng, mất ngủ. Có nguời chỉ hít thở như thế hơn 10 lần đã ngủ ngon. Tập
chừng một tháng, trí óc minh mẫn, sáng suốt hơn gấp bội.
2- Bái Tổ:
Ý Nghĩa = Xã hội có thứ tự trên dưới. Biết kính trên, nhường dưới,
cuộc sống mới tươi đẹp. Cũng ngồi như trên, nhưng hai bàn tay chắp lại
truớc ngực. Hít thở từ 10 lần trở lên. Tác dụng chữa bệnh giống như Tọa
Thiền.
3- Hoành Thiền:
Ý Nghiã = Con Nguời đuợc tạo ra bình đẳng. Nên tôn trọng lẫn nhau.
Ngồi như trên, nhưng hai tay dang thẳng ngang ra hai bên. Hít thở tối đa 10 lần. Cùng một tác dụng như hai thế trên.
4- Trung Thiền:
Ý Nghĩa = Nhìn lại bản thân xem mình đã làm gì cho những người chung
quanh vui vẻ chưa? Ngồi cúi đầu xuống, nhìn vào bụng mình. Hít thở như
trên. Chữa các bệnh về tiêu hoá. Làm 10 lần. Khi xong, phải xoay cổ vài
lần từ phải sang trái rồi từ trái sang phải, cho cổ không bị xơ cứng.
B. QUỲ
1- Hổ Phục:
Ý Nghĩa = Con Nguời chỉ là cát bụi và thật nhỏ bé truớc thiên nhiên.
Quỳ úp trán xuống đất, hai tay để thẳng, cùi chỏ để trên đất, xoải dài
trên đầu. Hít thở chừng 10 lần. Giúp ổn định tim, mạch, thần kinh. Khi
quá mệt sau một công việc nặng, tập thể thao quá độ, đánh võ... chỉ cần
quỳ xuống và hít thở trong vài phút là khoẻ lại ngay.
2- Tàng Long:
Ý Nghiã = Đôi khi chúng ta phải biết thu nhỏ mình lại, Quỳ áp một bên
má xuống đất, nếu áp má bên trái xuống thì thọc tay trái qua duới nách
cuả tay phải, nếu áp má bên phải xuống đất, thì thọc tay phải qua nách
trái. Ép mình xuống thấp. Hít thở. Trị mất ngủ. Thay đổi tay từ trái
sang phải, mỗi bên hít thở 10 lần.
3- Độc Long:
Ý Nghiã = Vận dụng ý chí để huớng thiện. Quỳ theo thế Hổ Phục, nhưng
giơ một chân thẳng lên trời. Hít thở. Trị bệnh thiếu máu, hay xây xẩm,
hay nhức đầu.
4-Thiềm Thừ: Ý Nghĩa = Tận dụng năng lực truớc, phó thác cho Thiên
Mệnh sau. Qùy áp trán xuống đất, hai tay bỏ xuôi theo thân mình, hai bàn
tay huớng về phiá bàn chân. Hít thở. Trị yếu tim, thần kinh.
C. NẰM
1- Bình Sơn:
Ý Nghĩa = Chan hoà với mọi người sẽ được mọi người yêu thương..
Nằm ngửa, không gối, hai tay xuôi theo thân mình. Từ từ rút gót chân
về, nhấc thân mình lên, chỉ bám trên đất bằng gót chân và hai vai, giữ
trọng lượng ở thắt lưng. Hít thở chừng 5 lần thôi, không cố gắng quá.
Trị đau bắp thịt thắt lưng, yếu sinh lý, nguời có hơi thở quá ngắn và
gấp rút. (Thế này không áp dụng đuợc với nguời mổ xuơng sống, thay thận,
tật xuơng sống bẩm sinh...)
2- Cung Tận:
Ý Nghĩa = Ý Chí của Con Người như cánh cung, càng căng càng mạnh. Nằm
sấp, hai tay xuôi theo thân mình. Ngẩng đầu lên và giơ chân lên, trong
khi dán bụng xuống đất, cho đầu và chân lên tạo thành hình cây cung, hít
thở 3 lần rồi hạ đầu và chân xuống, nghỉ vài giây, lại cong lên, hít
thở. Chưã đau thắt lưng, yếu sinh lý, lãnh cảm. (trừ người đang hoặc đã
mổ xương sống)
3- Thiên Vị:
Ý Nghĩa = Bỏ cái “Tôi” đi, thì tiến buớc nhanh nhẹn hơn. Nằm ngưả,
không gối, hai tay xuôi theo mình, từ từ rút chân về gần mông, nhấc hẳn
mông lên cao, mắt nhìn theo đùi, hít thở. Chưã yếu sinh lý, lãnh cảm,
đau thắt lưng.
4- Phân Thân:
Ý Nghĩa = Mọi vật đều vô thuờng. Ta có thể là Ta, có thể không là Ta. Dành riêng trị bệnh mất ngủ.
Nằm thẳng, không gối, hai tay xuôi theo mình. Nhắm mắt, hít thở chậm
rãi chừng 10 lần, theo dõi hơi thở. Sau đó, tập trung tư tuởng, hít sâu
tối đa, nén hơi, đếm 1,2,3, rồi thở ra chừng 10 lần nữa, bắt đầu “phân
thân”, tức là chia mình ra làm hai. Tuởng tuợng “mình” đang đứng bên
cạnh giuờng, ngó lại “mình” đang nằm trên giuờng. Ngó từ chân lên đầu.
Truớc hết, ngó ngón chân cái, bên trái, cố nhớ lại những kỷ niệm xẩy ra ở
ngón chân này (chẩy máu, sứt móng...) từ hồi còn nhỏ... Hết ngón cái
qua ngón bên cạnh, lần luợt ngó hết 5 ngón chân trái, qua bên chân phải,
cũng đi từ ngón cái. Hết năm ngón chân, qua gót chân trái, gót chân
phải, rồi lên mắt cá chân, lên cổ chân, lên ống quyển, đầu gối, lên
đùi... Hết một chân, qua chân kia. Hết chân, lên bụng, lên cổ, qua vai,
xuống cánh tay, cùi chỏ, bàn tay... lộn lên tay kia... rồi tới
cổ...mặt... Thuờng thì lên tới cánh tay, đã ngủ say... Ngủ kiểu này giúp
tăng cuờng sức mạnh, an thần, không cần ngủ 7,8 tiếng mà vẫn khoẻ.
D. ĐỨNG
1- Bạch Hạc:
Ý Nghĩa = Con nguời như chim Hồng, chim Hạc, luân chuyển không ngừng.
Đứng thoải mái, hai tay chắp truớc ngực, từ từ giang tay ra hai bên, cúi
nguời về truớc, đầu từ từ cúi xuống rồi cho thân mình gần như song song
với mặt đất, trong khi một chân giơ lên ngang với mặt đất. Giữ sức nặng
toàn thân trên một chân. Hít thở. Trị bệnh tim, mạch, cao mỡ, cao máu.
2- Độc Kê:
Ý Nghĩa = Tự chủ thắng sức mạnh. Đứng thoải mái, hai tay chắp truớc
ngực, từ từ co chân trái lên, gác bàn chân trái vào sau bắp vế chân
phải, hai tay từ từ giang ngang ra hai bên. Hít thở. Trị bệnh tim, mạch,
cao mỡ, cao máu.
3- Kim Quy:
Ý Nghĩa = Hãy lắng nghe nhiều hơn là nói. Đứng áp sát vào tuờng, má
trái áp vào tuờng, 10 đầu ngón chân cũng sát tuờng, tay trái thọc
ngang, xuyên duới nách phải, hít thở. Đổi nguợc lại, áp má phải, thọc
tay phải qua tay trái. Trị tim mạch.
4- Huớng Thiện:
Ý Nghĩa = Sống huớng thiện, huởng quả phúc. Đang đứng chân truớc chân
sau, từ từ rùn chân truớc xuống, chân sau duỗi thẳng ra, cho thắt lưng
thẳng, hai tay song song từ từ đưa về phía trước, hai bàn tay chụm lại,
rồi đưa thẳng lên trời. Khi hai tay giơ lên, thì hít vào, nén hơi, rồi
từ từ thở ra, xong thả nguời trở lại vị trí đầu. Tiếp tục nhịp nhàng như
vậy 10 lần. Tăng cuờng sức mạnh toàn thân.
Lưu ý:
Để Thiền Công có thể chưã hết bệnh này mà không tạo ra bệnh khác, phải
luôn luân chuyển các thế Động và Bất Động. Những nguời muốn ngồi Thiền
thật lâu, phải tập từ nhỏ để cơ thể quen dần. Lớn tuổi, không nên để bất
cứ bộ phận nào Bất Động lâu. Những nguời dùng Computer, thợ may... có
thể bị mổ cổ tay vì cổ tay luôn để Bất động. Có nguời phải mổ vai. Muốn
tránh đau nhức, thỉnh thoảng phải lắc, xoay cổ tay chừng vài phút. Lắc
trên xuống duới, lắc trái sang phải, lắc về phía truớc rồi ra sau. Các
vị cao niên, sau khi ngồi các thế Thiền chừng 20 phút, phải đứng dậy,
vặn vẹo thân thể cho các khớp xương không bị cứng. Sau thế Hoành Thiền,
phải xoay vai theo một vòng tròn truớc sau, mà trung tâm điểm của vòng
tròn là đầu vai. Xoay từ sau ra truớc rồi nguợc lại từ truớc ra sau.
Trong khi xoay, vặn như thế, phải tiếp tục hít sâu và thở dài. Truờng
hợp hay bị bệnh đau vai, đau bàn tay, hay vai bị sái: đứng khom nguời
xuống gần 90 độ, một tay vịn vào bàn, tay kia thả lỏng và vẽ một vòng
tròn tuởng tuợng trên mặt đất chừng 10 vòng, rồi trở lại tay kia. Làm
chừng 20 lần sẽ hết đau vai.
Trong phạm vi một bài viết ngắn ngủi, có thể còn thiếu sót, mong được
cao nhân chỉ giáo thêm và cũng chân thành gửi tới mọi nguời lời chúc
“sống vui, sống khỏe, sống hạnh phúc.”
Chu Tất Tiến
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét