Khi mắc bệnh gút
acid uric máu tăng và lắng đọng trong màng hoạt dịch khớp gây tổn thương
khớp. Ngoài ra acid uric còn có thể lắng đọng ở các cơ quan khác như
thận, tổ chức dưới da gây nên sỏi thận và hình thành các hạt tophi. Ở
Việt Nam, khi nền kinh tế bắt đầu phát triển, bệnh gút đã trở nên rất
phổ biến ở cả thành thị và nông thôn, vươn lên đứng hàng thứ tư trong
15 bệnh khớp nội trú thường gặp nhất.
Các biến chứng và hậu quả của bệnh gút
Khi bị mắc bệnh mà điều trị không đúng hoặc không được điều trị bệnh để lại những biến chứng, có thể dẫn đến những hậu quả nặng nề, thậm chí tử vong. Có 4 loại biến chứng của gút. Biến chứng thứ nhất liên quan đến tổn thương xương khớp, là tình trạng hủy hoại khớp, đầu xương, làm bệnh nhân tàn phế. Các hạt tophi bị loét vỡ, khiến vi khuẩn xâm nhập vào trong khớp gây viêm khớp nhiễm khuẩn, nhiễm khuẩn huyết. Biến chứng thứ hai liên quan tổn thương thận: sỏi thận, thận ứ nước ứ mủ, suy thận, tăng huyết áp, tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim... Biến chứng thứ ba liên quan đến chẩn đoán nhầm. Thường chẩn đoán nhầm với viêm khớp nhiễm khuẩn và được điều trị bằng rất nhiều loại kháng sinh khác nhau, có nguy cơ dị ứng thuốc kháng sinh, thậm chí có thể gây tử vong. Một chẩn đoán nhầm khác là viêm khớp dạng thấp, từ đó dẫn đến điều trị tràn lan bằng các thuốc chống viêm không steroid, prednisolon, dexamethason, với hậu quả là biến chứng loãng xương, gãy xương, đái tháo đường, tăng huyết áp. Biến chứng thứ tư liên quan đến tai biến do dùng thuốc. Ngay cả khi chẩn đoán đúng thì việc điều trị gút cũng có thể gây nên tai biến. Các thuốc chống viêm không steroid có thể gây tổn thương nhiều cơ quan như máu, thận, tiêu hóa, dị ứng.
Khó khăn khi điều trị bệnh gút
Có 3 khó khăn chính khi điều trị bệnh gút. Đầu tiên là tác dụng phụ của một số thuốc chữa bệnh gút như colchicin có thể gây tiêu chảy, allopurinol có thể gây dị ứng, các thuốc tăng thải acid uric có thể gây sỏi thận. Thứ hai là cơ địa dị ứng thuốc của bệnh nhân. Có bệnh nhân gút bị dị ứng với nhiều thuốc chữa gút như colchicin và allopurinol. Một số trường hợp xảy ra sốc phản vệ, có thể dẫn đến tử vong nếu không cấp cứu kịp thời. Thứ ba là sự thiếu tuân thủ điều trị của người bệnh. Bệnh nhân gút thường chỉ dùng thuốc trong đợt cấp rồi bỏ thuốc, dẫn đến bệnh vẫn tiến triển nặng dần. Một số bệnh nhân lạm dụng thuốc corticoid dẫn đến tác dụng phụ đáng tiếc như xuất huyết tiêu hoá, tăng huyết áp, tai biến mạch máu não. Nhiều bệnh nhân vẫn tiếp tục ăn nhậu quá mức và sinh hoạt không điều độ, do vậy bệnh vẫn có nguy cơ tái phát. Nói chung những người mắc bệnh gút rất hay bị dị ứng thuốc, do đó cần thận trọng khi sử dụng bất kỳ loại thuốc gì, kể cả thuốc Đông y và Tây y. Tốt nhất là nên tham khảo ý kiến của các bác sĩ chuyên khoa.
Nguyên tắc điều trị bệnh gút
Bệnh nhân gút phải xác định tư tưởng điều trị lâu dài, tránh bỏ thuốc khi bệnh thuyên giảm. Khi đó thì mới có thể giữ bệnh khỏi tái phát trong thời gian dài. Bệnh nhân gút cần tích cực hợp tác với bác sĩ trong việc điều trị, ngăn ngừa biến chứng bệnh bằng chế độ ăn uống, sinh hoạt và dùng thuốc. Để điều trị có hiệu quả cần thường xuyên kiểm tra acid uric máu và niệu, chức năng thận. Ngoài ra bệnh nhân cũng cần được chẩn đoán và điều trị các bệnh kèm theo như rối loạn chuyển hoá lipid, đái tháo đường, tăng huyết áp...
Cách phòng tránh bệnh gút
Các biến chứng và hậu quả của bệnh gút
Khi bị mắc bệnh mà điều trị không đúng hoặc không được điều trị bệnh để lại những biến chứng, có thể dẫn đến những hậu quả nặng nề, thậm chí tử vong. Có 4 loại biến chứng của gút. Biến chứng thứ nhất liên quan đến tổn thương xương khớp, là tình trạng hủy hoại khớp, đầu xương, làm bệnh nhân tàn phế. Các hạt tophi bị loét vỡ, khiến vi khuẩn xâm nhập vào trong khớp gây viêm khớp nhiễm khuẩn, nhiễm khuẩn huyết. Biến chứng thứ hai liên quan tổn thương thận: sỏi thận, thận ứ nước ứ mủ, suy thận, tăng huyết áp, tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim... Biến chứng thứ ba liên quan đến chẩn đoán nhầm. Thường chẩn đoán nhầm với viêm khớp nhiễm khuẩn và được điều trị bằng rất nhiều loại kháng sinh khác nhau, có nguy cơ dị ứng thuốc kháng sinh, thậm chí có thể gây tử vong. Một chẩn đoán nhầm khác là viêm khớp dạng thấp, từ đó dẫn đến điều trị tràn lan bằng các thuốc chống viêm không steroid, prednisolon, dexamethason, với hậu quả là biến chứng loãng xương, gãy xương, đái tháo đường, tăng huyết áp. Biến chứng thứ tư liên quan đến tai biến do dùng thuốc. Ngay cả khi chẩn đoán đúng thì việc điều trị gút cũng có thể gây nên tai biến. Các thuốc chống viêm không steroid có thể gây tổn thương nhiều cơ quan như máu, thận, tiêu hóa, dị ứng.
Tinh thể acid uric lắng đọng trong khớp ngón chân cái.
|
Có 3 khó khăn chính khi điều trị bệnh gút. Đầu tiên là tác dụng phụ của một số thuốc chữa bệnh gút như colchicin có thể gây tiêu chảy, allopurinol có thể gây dị ứng, các thuốc tăng thải acid uric có thể gây sỏi thận. Thứ hai là cơ địa dị ứng thuốc của bệnh nhân. Có bệnh nhân gút bị dị ứng với nhiều thuốc chữa gút như colchicin và allopurinol. Một số trường hợp xảy ra sốc phản vệ, có thể dẫn đến tử vong nếu không cấp cứu kịp thời. Thứ ba là sự thiếu tuân thủ điều trị của người bệnh. Bệnh nhân gút thường chỉ dùng thuốc trong đợt cấp rồi bỏ thuốc, dẫn đến bệnh vẫn tiến triển nặng dần. Một số bệnh nhân lạm dụng thuốc corticoid dẫn đến tác dụng phụ đáng tiếc như xuất huyết tiêu hoá, tăng huyết áp, tai biến mạch máu não. Nhiều bệnh nhân vẫn tiếp tục ăn nhậu quá mức và sinh hoạt không điều độ, do vậy bệnh vẫn có nguy cơ tái phát. Nói chung những người mắc bệnh gút rất hay bị dị ứng thuốc, do đó cần thận trọng khi sử dụng bất kỳ loại thuốc gì, kể cả thuốc Đông y và Tây y. Tốt nhất là nên tham khảo ý kiến của các bác sĩ chuyên khoa.
Nguyên tắc điều trị bệnh gút
Bệnh nhân gút phải xác định tư tưởng điều trị lâu dài, tránh bỏ thuốc khi bệnh thuyên giảm. Khi đó thì mới có thể giữ bệnh khỏi tái phát trong thời gian dài. Bệnh nhân gút cần tích cực hợp tác với bác sĩ trong việc điều trị, ngăn ngừa biến chứng bệnh bằng chế độ ăn uống, sinh hoạt và dùng thuốc. Để điều trị có hiệu quả cần thường xuyên kiểm tra acid uric máu và niệu, chức năng thận. Ngoài ra bệnh nhân cũng cần được chẩn đoán và điều trị các bệnh kèm theo như rối loạn chuyển hoá lipid, đái tháo đường, tăng huyết áp...
Cách phòng tránh bệnh gút
Có thể phòng tránh được bệnh gút bằng việc thực hiện một chế độ ăn
uống, sinh hoạt lành mạnh và khoa học. Bệnh nhân cần nhận thức rằng ăn
uống không khoa học là một yếu tố thức đẩy làm xuất hiện bệnh và làm
bệnh tái phát, vì vậy cần phải hạn chế ăn nhậu quá mức. Các nguyên tắc
vệ sinh ăn uống đối với bệnh nhân gút là chế độ ăn giảm đạm, giảm mỡ,
giảm cân nếu béo phì và uống nhiều nước, đặc biệt là nước khoáng kiềm.
Do vậy bệnh nhân gút cần tuân thủ chế độ ăn kiêng. Thứ nhất, lượng thịt
ăn hàng ngày không nên quá 150g, đặc biệt cần tránh ăn phủ tạng động vật
(lòng lợn, tiết canh, gan, thận, óc, dạ dày, lưỡi...), các loại thịt đỏ
(thịt trâu, bò, chó, dê), các loại hải sản (tôm, cua, cá béo). Có thể
ăn trứng, sữa, phomat, thịt trắng như thịt gia cầm, cá nạc. Thứ hai là
nên ăn thêm ngũ cốc, bánh mì trắng. Thứ ba là ăn nhiều rau xanh, cà
rốt, bắp cải, đậu phụ, hoa quả. Thứ tư là cần tránh ăn những thức ăn
chua như nem chua, dưa hành muối, canh chua, hoa quả chua, uống nước
chanh... vì chính những chất chua lại làm bệnh nặng hơn. Thứ năm là về
các đồ uống. Bệnh nhân cần bỏ rượu, thậm chí cả rượu vang, rượu thuốc.
Bệnh nhân cần tích cực uống nhiều nước, 1,5-2 lít nước mỗi ngày. Đặc
biệt là nên uống nước khoáng kiềm để tăng cường thải tiết acid uric qua
nước tiểu. Bệnh nhân gút cần có chế độ sinh hoạt điều độ, làm việc nhẹ
nhàng, tránh mỏi mệt cả về tinh thần lẫn thể chất như: lạnh, lao động
quá sức, chấn thương, stress... Ngoài ra bệnh nhân gút cần tránh dùng
một số loại thuốc có thể làm tăng acid uric máu như các thuốc lợi tiểu,
corticoid, aspirin.
TS.BS.Nguyễn Vĩnh Ngọc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét